Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành văn bản hợp nhất quy định chuyển trường và tiếp nhận học sinh học tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trong đó sửa đổi, bãi bỏ một số điểm.
Văn bản hợp nhất quy định chuyển trường và tiếp nhận học sinh học tại các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông quy định việc chuyển trường, xin học lại của học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông; tiếp nhận học sinh Việt Nam học tại các trường trung học ở nước ngoài có nguyện vọng vào học các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông ở Việt Nam; tiếp nhận học sinh người nước ngoài có nguyện vọng vào học các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông ở Việt Nam.
Đối tượng chuyển trường là học sinh chuyển nơi cư trú theo cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ; Học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về gia đình hoặc có lý do thực sự chính đáng để phải chuyển trường.
Về thủ tục chuyển trường, đối với học sinh trung học cơ sở, chuyển trường trong cùng tỉnh, thành phố: Hiệu trưởng nhà trường nơi đến tiếp nhận hồ sơ và xem xét, giải quyết theo quy định của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo. Trường hợp chuyển trường đến từ tỉnh, thành phố khác, phòng Giáo dục và Đào tạo nơi đến tiếp nhận và giới thiệu về trường theo nơi cư trú, kèm theo hồ sơ đã được kiểm tra.
Đối với học sinh trung học phổ thông, chuyển trường trong cùng tỉnh, thành phố, hiệu trưởng nhà trường nơi đến tiếp nhận hồ sơ và xem xét, giải quyết theo quy định của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo. Trường hợp chuyển trường đến từ tỉnh, thành phố khác, Sở Giáo dục và Đào tạo nơi đến tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ và giới thiệu về trường.
Việc chuyển trường được thực hiện khi kết thúc học kỳ I của năm học hoặc trong thời gian hè trước khi khai giảng năm học mới. Trường hợp ngoại lệ về thời gian do Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo (đối với cấp trung học cơ sở), Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo (đối với cấp trung học phổ thông) nơi đến xem xét, quyết định.
Về điều kiện và thủ tục tiếp nhận học sinh Việt Nam về nước, đối tượng học sinh Việt Nam về nước gồm: Học sinh học ở nước ngoài diện được cấp học bổng theo các hiệp định, thoả thuận giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế; học sinh học ở nước ngoài theo diện du học tự túc hoặc hợp đồng đào tạo giữa các cơ sở giáo dục của Việt Nam với các tổ chức, cá nhân nước ngoài; học sinh theo cha, mẹ hoặc người giám hộ làm việc ở nước ngoài, học sinh Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Học sinh Việt Nam ở nước ngoài về nước năm xin học được gia hạn thêm 3 tuổi so với tuổi quy định của từng cấp học.
Chương trình học tập ở nước ngoài phải có nội dung tương đương với chương trình giáo dục của Việt Nam với những môn học thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Với những môn học thuộc nhóm khoa học xã hội và nhân văn, học sinh phải bổ túc thêm kiến thức cho phù hợp với chương trình giáo dục của Việt Nam.
Những học sinh đang học dở chương trình của một lớp học ở nước ngoài xin chuyển về học tiếp lớp học tương đương tại trường trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông Việt Nam phải được nhà trường nơi tiếp nhận kiểm tra trình độ theo chương trình quy định của lớp học đó…